Giỏ hàng hiện tại chưa có sản phẩm nào!

Câu chuyện địa danh, câu chuyện văn hóa
Nhắc đến vùng đất phương Nam, hiện lên trong tâm trí nhiều người là những khung cảnh thiên nhiên trữ tình, thơ mộng, nơi vẫn được bảo lưu tương đối sắc thái nguyên sơ của bạt ngàn sông nước thuở ban đầu lập cõi, bất chấp nhịp độ đô thị hóa vẫn đang dồn dập đẩy xô tại hầu khắp mọi nơi trên cả nước. Với những ai đã từng đặt chân đến, đã từng dừng chân lại, khó tránh phút chia xa hay những lần hồi tưởng, lại trào dâng trong lòng chút gì bồi hồi, luyến lưu.
Nhạc sĩ tài hoa Vũ Đức Sao Biển đã từng viết lên những giai điệu và ca từ bất hủ dành tặng mảnh đất phương Nam trong một dịp hồi tưởng, luyến lưu những cảnh và người. Ta hãy cùng nghe những lời ca sau trong bài ca Đêm Gành Hào nghe điệu Hoài Lang của ông:
“Lời ai ca dưới ánh trăng này
Rừng đước mênh mông, đêm gành Hào chợt thương nhớ ai
Ngày ấy ra đi, con sông buồn tím một dòng trôi…”
Con nước đã ngả sắc buồn tiễn chân người lữ khách, hoặc chăng với kẻ ra đi ngoái đầu hồi cố, nước biếc trên sông bỗng cũng hóa tím lịm u sầu.
Ký ức Nam bộ về cảnh vật, con người, thiên nhiên, xứ sở, tất nhiên không chỉ lưu giữ trong những sáng tác thơ ca hay âm nhạc hiện đại. Những sự nhắc, nhớ khôn nguôi từ thuở nào chẳng rõ, đã chiếm giữ lấy một phần không nhỏ kho tàng di sản ca dao, dân ca của xứ sở này. Ví như:
“Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về.”
Lại như:
“Bạc Liêu nước chảy lờ dờ
Dưới sông cá chốt, trên bờ Triều Châu.”
Hay rằng:
“Cà Mau khỉ khọt trên bưng
Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um.”
Và vô vàn những sáng tác dân gian truyền khẩu khác, vẫn âm thầm chất chứa lưu giữ, bảo tồn những xúc cảm lẫn hồi ức và mô tả xa xưa về đất và người, xuyên suốt một dọc dài thời gian và không gian xứ sở nơi đây. Biết bao những địa danh, khung cảnh, sắc thái, sản vật, đã hiện lên trong từng lời ca dân gian ấy, nào là Gia Định, Nhà Bè, Bạc Liêu, Cà Mau, nào là nước chảy, bưng, biền, cá chốt, khỉ, cọp… Danh xưng và cảnh vật, ngày nay không ít đã đổi thay.
Ẩn chứa trong cái cách con người ta gọi tên từng mảnh đất, từng sự vật, từng kiểu địa hình thiên nhiên mà họ quan sát được, chính là cách con người nhìn ngắm, tương tác và lý giải những cảnh quan và điều kiện sinh sống của chính mình. Và những tư tưởng, lối sống, lối nghĩ, lối làm ấy, tựu trung, chính là văn hóa, mà như ta vừa nhận ra, văn hóa của con người một thời đại, có thể được bóc tách, dò tìm, khám phá từ trong từng địa danh lẫn từng tên gọi cảnh vật, địa hình.
Với cách đặt vấn đề ấy, nhà nghiên cứu Bùi Đức Tịnh đã dày công lục lọi, khảo sát, tích cóp bao thông tin, tư liệu, để gửi đến chúng ta một công trình học thuật dù còn ngắn gọn nhưng thật sự chỉn chu, mà ngay nhan đề đã cho ta biết rõ chủ đề của nó, cuốn sách Lược khảo nguồn gốc địa danh Nam bộ.

Với những ai sinh ra và lớn lên tại xứ miệt vườn sông nước Nam bộ, lẫn những ai yêu văn hóa và cảnh sắc nơi này, hẳn sẽ tìm thấy trong cuốn sách không ít những thông tin lý thú giúp ta hiểu rõ hơn từng cái tên, cách gọi mà ta vẫn nghe, vẫn gặp, thậm chí vẫn dùng, nhưng bấy lâu chưa từng nghiền ngẫm, lý giải, hoặc biết đâu còn từng dùng sai, như những kiểu địa hình bàu, bãi, bưng, biền, gành, giồng, vàm, truông, vân vân. Những cách gọi tên ấy được tác giả khéo léo sắp xếp bên trong sách thành những danh mục dễ tra cứu cho từng nhóm sự vật như vật thể tự nhiên, giao thông, nơi cư trú, đơn vị hành chính, quân sự, vân vân, và đưa ra giải thích ý nghĩa về mặt từ nguyên, kèm theo ví dụ và dẫn chứng.
Phần đắt giá nhất, có lẽ là chương phân tích, lý giải cách thức mà người Nam bộ xưa đã áp dụng để sáng tạo các địa danh. Từ trong sách, ta nhận ra những mô-típ địa danh quen thuộc ở Nam bộ vốn chung một công thức đặt tên kết hợp giữa một từ chỉ địa hình và một từ chỉ đặc trưng mảnh đất, như những Ba Tri, Ba Trương, Cái Răng, Cái Nước, Trà Vinh, Trà Ôn, Bến Tre, Bến Lức, vân vân, và tác giả cũng cho ta những lý giải cơ bản.
Cũng từ trong sách, ta biết được nhiều địa danh Nam bộ có tên gọi dịch nghĩa từ tên gốc tiếng Khmer, ví như Núi Bà Đen dịch nghĩa từ từ Phnom Vicil Khmau; hoặc đôi khi là phiên âm lại từ tiếng Khmer, như srock thành Sóc trong Sóc Trăng, khmau thành Cà Mau, phsar đek thành Sa Đéc, vân vân.
Một vấn đề bấy lâu vẫn gây tranh cãi chưa dứt là nguồn gốc danh xưng “Sài Gòn” cũng được tác giả bàn đến. Ông lý giải tên gọi Sài Gòn được hình thành theo lối vừa dịch nghĩa, vừa phiên âm lại cách gọi Khmer xưa là Prey No Kor cho mảnh đất này. Trong đó, Prey được phiên âm thành “Thầy”, và danh từ No Kor được dịch thành “Gòn”, tức “cây gòn” dùng để lấy sợi. Theo tác giả, trước những năm 1930 khi báo chí chưa phát triển, người dân vẫn gọi nơi đây là “Thầy Gòn”. Về sau cách phát âm có sự biến đổi, và hoạt động báo chí dần phổ biến đã ấn định cách viết Sài Gòn tồn tại đến ngày nay.
Có những ý kiến mà có lẽ, nhiều độc giả cũng như các học giả chưa dễ tán thành, thậm chí bất đồng, phản đối, nhưng sự dày công cẩn thận, và ham thú tìm tòi của người viết vẫn là điều ta khó phủ nhận. Giá trị đầu tiên và cơ bản của một công trình học thuật nghiêm túc, chưa vội bàn đến sự đúng sai nơi kết luận, chính là công năng gợi mở không gian suy tưởng, suy luận, và tranh luận để tìm kiếm lời giải đúng nhất. Nhìn từ điểm nhìn ấy, ta có quyền suy tưởng rằng, những bước chân khai phá của tác giả khi ngược dòng về thuở ban sơ của mảnh đất lịch sử Nam bộ, để tìm về bản nguyên danh tính của sông, núi, xóm, làng, hẳn sẽ không phải là bước chân đơn độc, và không thể là bước chân đơn độc.
Bài viết do Đội ngũ Anam Cara thực hiện.
Để lại một bình luận