Giỏ hàng hiện tại chưa có sản phẩm nào!

Cảm nhận khi đọc Triết học và nhân sinh của Hồ Thích
“Triết học dạy ta cách hành động, chứ không phải chỉ dạy ta nói”
– Seneca
“Sống mà không có triết lý cũng như sống với cặp mắt nhắm nghiền mà không chịu cố mở nó ra”
– René Descartes
“Tác phẩm đích thực của một triết gia chính là cuộc đời của ông ấy”
– Friedrich Nietzsche
Bạn có bao giờ từng nghĩ, phải chăng mọi cuốn sách triết học đều chỉ bàn về những thứ xa xôi trừu tượng hay những điều phức tạp khó hiểu? Và nếu thế, những sách ấy phải chăng chỉ dành cho những ai đam mê hay những bậc thiên tài? Hay rằng, phải chăng các triết gia luôn là những nhà thông thái chỉ sống trong tháp ngà tư tưởng, bầu bạn với giấy bút và thư viện?
Đó có lẽ là những ấn tượng ban đầu thường thấy của những bạn đọc còn xa lạ với triết học, khi hình dung về triết gia và những cuốn sách triết lý vốn thường bị mặc định là cao siêu, khó hiểu. Điều ấy vừa đúng lại vừa sai. Đích thực ta sẽ thường bắt gặp những tác phẩm triết học thách đố người xem ngay từ nhan đề, như cuốn Hữu thể và thời gian của Heidegger chẳng hạn, hoặc như cuốn Phê phán lý tính thuần túy của I. Kant, có thể ngay lập tức khiến những độc giả “ngoại đạo” thấy choáng váng và cảm nhận chúng không thuộc về thế giới của mình. Những sách ấy có thể là đại diện cho không gian suy tưởng riêng tư của các triết gia cùng các đồng nghiệp và những người cùng đam mê, nhưng không có nghĩa là họ chỉ mãi sống trong không gian riêng biệt ấy. Họ cũng phải bước ra vật lộn với cuộc đời, và có lẽ, mọi suy tư trăn trở của họ đều bắt nguồn từ những điều vụn vặt đời thường nhất.

Cũng bởi thế mà ta có thể bắt gặp những cuốn sách tuy dán nhãn “triết học” nhưng kỳ thực lại rất “nhân sinh”, như cuốn Triết học và nhân sinh này. Bạn đọc “ngoại đạo” đừng vội vàng bị dọa bởi cụm từ “triết học” nằm chễm chệ trên nhan đề, bởi khi đọc vào, ta sẽ khó tìm thấy những khái niệm hoặc danh từ chuyên môn của giới triết gia xuyên suốt hơn 200 trang của quyển sách này. Trái lại, thay vào đó là thứ ngôn từ gần gũi, mộc mạc, tuy vẫn nhằm chuyển tải những chủ đề lớn lao nhưng lại bằng lối viết nhẹ nhàng theo kiểu trò chuyện thân tình.
Cuốn sách là pho tuyển tập những bài viết và bài diễn thuyết của Hồ Thích (1891 – 1962), một triết gia và nhà cách mạng văn hóa lớn của Trung Quốc thế kỷ XX, một trong những người có công đầu đưa văn hóa Trung Hoa bước vào thời hiện đại. Trong suốt đời hoạt động của mình, Hồ Thích không chỉ đóng góp khối lượng công trình nghiên cứu khổng lồ, mà còn tích cực dùng ngòi bút lẫn tiếng nói của một nhà trí thức tầm cỡ, đóng góp ý tưởng giải pháp cho những vấn đề gây ưu tư nhức nhối trong xã hội Trung Quốc bấy giờ. Ta có thể thấy rõ điều đó nơi cuốn sách ngay từ những trang đầu tiên. Sau những ghi chép và phân tích tỉ mỉ về đặc điểm lẫn vị trí của phụ nữ trong xã hội Hoa Kỳ, ông tiến đến nhận định:
“[…] tinh thần đặc biệt của phụ nữ Hoa Kỳ nằm ở tinh thần “tự lập”, ở kiểu “nhân sinh quan vượt trên vợ thảo mẹ hiền”. Đây là quan niệm mà phụ nữ Trung Quốc chúng ta thiếu nhất […] Một xã hội tốt đẹp chắc chắn sẽ không có tinh thần ỷ lại lẫn nhau như hiện tại, không thể được cấu thành từ những nam nữ không thể tự lập.”
Bạn có thấy vấn đề nêu trên vẫn chưa hề xưa cũ với thực trạng giới ở Việt Nam ngày nay, khi ở nhiều nơi phụ nữ vẫn còn nhiều lệ thuộc, và vẫn bị khép mình trong quan niệm “vợ thảo mẹ hiền”? Phát hiện được vấn đề, mới có thể bắt đầu tìm giải pháp, và trong sách này Hồ Thích cũng cho ta một bài luận gợi mở về lộ trình giải phóng phụ nữ, kiến tạo một xã hội biết đón nhận những vai trò thích đáng hơn của nữ giới.

Bên cạnh vấn đề phụ nữ, giáo dục cũng là một điểm nóng được bàn đến, lẽ hiển nhiên, không chỉ ở thời đại Hồ Thích mà vẫn nóng đến tận ngày nay. Ông đã đưa ra giải đáp cho từng vấn đề của giáo dục, ví như, vì sao việc học quan trọng, không chỉ với cá nhân, mà còn với xã hội? Vì, theo Hồ Thích:
“Một bộ óc đã từng trải qua rèn giũa sẽ luôn cảnh giác và nghi ngờ về sự thiên kiến, võ đoán, mù quáng chấp nhận truyền thống và cạm bẫy của quyền uy mà người khác dễ dàng mắc phải. Đồng thời, một bộ óc đã trải qua rèn giũa thì chắc chắn không mang tính tiêu cực hoặc hủy diệt.”
Ta hiểu, học vấn là nền tảng phải có của con người bản lĩnh, tự do, có trách nhiệm và biết chừng mực. Vậy thì, học thế nào cho hiệu quả? Tác giả cũng cho ta một gợi ý về phương pháp: Luôn cố tự đặt câu hỏi, để tự phát hiện những lỗ hổng kiến thức cần bù đắp và tự kích thích hoạt động tư duy. Như ông viết:
“Những câu hỏi khó giải quyết này sẽ luôn quẩn quanh tâm lý tự mãn và lười biếng tiếp nạp tri thức của các bạn […] Nó sẽ giúp niềm hứng thú nghiên cứu học vấn trong cuộc đời bạn không bao giờ bị dập tắt, lại có thể phát triển các sở thích mới cho các bạn, giúp nâng mức tiêu chuẩn cuộc sống hằng ngày lên trên những thói quen cũ và buồn chán.”
Nhưng không chỉ thế, học tập và tư duy đúng cách còn có lợi ích “khiến chúng ta trở thành người biết phán đoán hơn, khiến chúng ta trở thành công dân tốt hơn, cử tri thông minh hơn, độc giả có trí tuệ hơn, người bình luận sắc sảo hơn về các sự kiện của quốc gia và quốc tế.”
Và với giáo dục, lợi ích cá nhân sẽ luôn song hành cùng lợi ích xã hội:
“Sự rèn giũa này đặc biệt quan trọng đối với công dân và cử tri trong một quốc gia dân chủ. Thời đại các bạn đang sống là thời đại ngập tràn những sự kiện kinh tâm động phách, là thời đại chiến tranh đang lăm le tàn phá chính phủ cũng như nền tảng văn hóa của các bạn. Những thứ đang bủa vây và đè nặng lên vai các bạn là ý thức hệ không cho phép người ta nghi ngờ và phản bác, là lời tuyên truyền tinh vi, cũng như những trang sử đã bị bẻ cong hoặc viết lại. Tôi hy vọng rằng khi đứng trước những cơn gió xoáy khiến người ta quay cuồng như vậy, các bạn cần tạo dựng cho mình năng lực phán đoán, cần tự mình đưa ra quyết định.”
Chừng đó ví dụ đủ cho ta thấy, những suy tư phân tích của tác giả trong cuốn sách này vẫn gần gũi và có giá trị vẹn nguyên cho đến tận ngày nay. Nhưng chưa hết, ta sẽ còn thấy những suy tư và luận giải sâu sắc ấy cho nhiều vấn đề nhân sinh khác, như về tự do, về trách nhiệm, về đạo đức nghề nghiệp, hay thậm chí còn có những khao khát xa xôi của tác giả rằng làm sao để có tình bác ái ở tầm nhân loại.

Từ quyển sách này, bạn đọc sẽ thấy được triết gia bằng sự suy tư của mình có thể đóng góp được gì cho xã hội, cũng như rằng triết học gắn bó mật thiết với nhân sinh, với cuộc đời ra sao. Triết gia cũng sống một cuộc đời như bao người khác, cũng phải va chạm, khổ đau và trăn trở với cuộc đời. Nói như Hồ Thích, triết học khởi đầu với những vấn đề thiết yếu của nhân sinh, để tìm ra những giải đáp và ý nghĩa cho cuộc nhân sinh. Mối quan hệ giữa triết và đời, vì thế vô cùng gắn bó. Đến độ “Nhân sinh tách rời khỏi triết học thì đó là nhân sinh không có ý nghĩa; triết học tách khỏi nhân sinh thì đó là triết học mơ mộng hão huyền.” Từ cách nhìn đó, cũng có thể hiểu rằng: triết học đi tìm lẽ sống, và nhân sinh là sự hiện thực hóa lẽ sống ấy. Lẽ sống ấy chính là thứ triết lý mà mỗi con người đã chọn và phải chọn để dẫn lối cho cuộc đời mình.
Hiểu theo đó, triết học dường như chẳng còn xa cách mấy, mà kỳ thực luôn cận kề bên chúng ta mỗi ngày, vào mỗi lúc ta trăn trở ưu tư về mục đích sống, về ý nghĩa cuộc đời, về câu hỏi: “vì sao tôi lại khổ thế này?” vẫn luôn văng vẳng trong đầu. Nói như thế, ta cũng có hạt giống triết gia, cũng cần có triết lý để định hướng đời sống và giải tỏa những khúc mắc, bâng khuâng. Thế nhưng ta lại không là triết gia “chuyên nghiệp”, vì không thể tự tay vun bón hạt giống ấy nảy mầm, để tự giải quyết trọn vẹn những vấn đề đậm chất triết học ấy. Và tập sách này có thể sẽ làm thay ta công việc đó, trở thành những chỉ lối cần thiết và phù hợp với bất cứ ai muốn hướng tới một cuộc đời nhiều ý nghĩa hơn.
Bài viết do Đội ngũ Anam Cara thực hiện.
Để lại một bình luận