Giỏ hàng hiện tại chưa có sản phẩm nào!

Hình tượng trí thức dấn thân trong “Triết học và nhân sinh” của Hồ Thích
Người ta không viết cho kẻ nô lệ. Nghệ thuật văn xuôi liên hệ với một thể chế duy nhất mà nó còn giữ được ý nghĩa trọn vẹn: đó là dân chủ […] Viết tức là một cách nào đó muốn có tự do, và nếu anh đã bắt đầu, thì dầu muốn dầu không, anh phải dấn thân. Người ta sẽ hỏi: Dấn thân vào gì? Vào sự bảo vệ tự do.
Jean-Paul Sartre (1905-1980)
Câu viết nổi tiếng trên của văn hào Pháp Jean-Paul Sartre, chủ nhân của giải Nobel văn chương năm 1964, đã khẳng định một tinh thần mới cho nền văn học nghệ thuật: tinh thần tự do và tranh đấu cho tự do. Và tại mặt trận ấy, những người cầm bút chính là những chiến sĩ. Xuyên suốt cuộc đời hoạt động của mình, Sartre vừa là chiến binh tiên phong kêu gọi, đồng thời cũng là tấm gương điển hình cho hình tượng mà ông kêu gọi: hình tượng trí thức dấn thân (engaged intellectuals). Các con phố của Paris trong suốt mấy thập niên đã bao lần chứng kiến nhà đại văn hào này xuống đường dẫn đầu những làn sóng biểu tình đòi hỏi quyền lợi cho dân chúng. Trí thức, trong tinh thần ấy, không còn ngồi chễm chệ trong tháp ngà của tư tưởng, xa lánh đời sống bình dân; trái lại, phải là những người biết sống, biết trải nghiệm, biết hòa nhập, để từ đó biết rõ những khổ đau, thiệt thòi của quần chúng, qua đó dùng tri thức và tầm nhìn của mình suy tư về giải pháp chung cho sự tiến bộ của cộng đồng, và rồi trở thành những cá nhân tiên phong đòi thực thi giải pháp ấy.
Tại các nước Á Đông, giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đánh dấu bước ngoặt cho sự chuyển mình từ xã hội phong kiến sang xã hội hiện đại. Đó là giai đoạn đặt bản lề cho khung cửa của thời đại mới, với sự xuất hiện của hàng loạt những nhà trí thức cấp tiến với bầu nhiệt huyết sục sôi và tầm nhìn tiến bộ. Họ đồng thời cũng là những nhà cách mạng tích cực dấn thân hành động vì sự đổi thay của toàn dân tộc. Xét trong lịch sử Việt Nam thời kỳ này, có thể thấy đó là hình ảnh của các cụ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Văn Vĩnh hay Phạm Quỳnh, v.v. với quyết tâm xóa bỏ bức màn phong kiến lỗi thời và xây dựng nền tảng tinh thần cho một thời đại mới, tiếp cận văn minh tiến bộ của Tây phương. Con đường mà các vị ấy lựa chọn tuy có những khác biệt, nhưng cùng chung một lộ tuyến và xuất phát điểm, mà khái quát theo tinh thần của cụ Phan Châu Trinh, ta sẽ “khởi hành” với công cuộc “khai dân trí”: phát triển giáo dục, nâng cao nhận thức, hay nói nôm na rằng, phải đổi cách tư duy để làm mới cuộc đời.

Quan điểm ấy cũng tương tự với các nhà cải cách cùng thời ở Trung Quốc, mà Hồ Thích, tác giả của tập sách này, chính là một đại diện tiêu biểu. Nói đôi chút về bối cảnh, nếu như tại Việt Nam bấy giờ đang chịu ách đô hộ của thực dân Pháp, thì Trung Quốc thậm chí còn bị tranh nhau xâu xé bởi nhiều nước thực dân, đế quốc khác nhau sau sự nhượng bộ của nhà Thanh với hiệp ước Tân Sửu (1901): Anh, Pháp, Nhật, Nga, Mỹ, Đức, Ý, hay trước đó còn có Áo-Hung. Chế độ phong kiến suy yếu trầm trọng cùng với sự chèn ép của ngoại quốc xâm lăng đã gieo rắc một nỗi nhục nhã ê chề và cũng từ đó thôi thúc tinh thần phản kháng, đấu tranh đòi độc lập, tự cường, dân chủ và tiến bộ. Muốn có được những điều đó, những nhà trí thức đã nhìn ra điểm mấu chốt: sự chênh lệch về trình độ tri thức và văn minh khoa kỹ chính là đầu mối cho sự thất bại của các dân tộc Á Đông trước các đế quốc Tây phương. Và để xóa bỏ sự chênh lệch ấy, chỉ có thể bắt đầu từ công cuộc cải cách văn hóa và giáo dục. Phải xây dựng nơi quần chúng một não trạng khác, một lối tư duy và lối sống khác, mới tạo nên bước chuyển toàn cục cho dân tộc và phá tan xiềng xích nô lệ.
Hồ Thích (1891 – 1962) đã sống và hoạt động trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động như vậy, thậm chí, không ngoa khi nói rằng chính ông là một trong những cá nhân có đóng góp nhiều nhất cho sự chuyển mình của Trung Quốc sang ngưỡng cửa thời đại mới. Là một trong những trí thức Trung Quốc đầu tiên tiếp thu bài bản nền học vấn phương Tây, Hồ Thích đã từng có 7 năm du học tại Hoa Kỳ và nhận bằng tiến sĩ Triết học tại đại học Chicago vào năm 1917, nơi ông được học dưới sự hướng dẫn trực tiếp từ đại triết gia và nhà giáo dục nổi tiếng John Dewey (1859 – 1952).

Trong thời gian du học tại Mỹ, Hồ Thích vẫn luôn dõi theo chặt chẽ tình hình của nước nhà, thấy rõ những lạc hậu yếu kém của nền giáo dục trong nước, và nhận thức rõ yêu cầu của một cuộc cách mạng văn hóa, tư tưởng toàn diện. Bất chấp điều kiện khó khăn của việc liên lạc thư từ về nước (phải mất 2 tháng chuyển thư bằng đường thủy), Hồ Thích vẫn trở thành cây bút sôi nổi nhất của tờ Tạp chí Tân Thanh Niên do Trần Độc Tú khởi xướng, một tờ báo chủ trương xây dựng nền văn học và tư tưởng mới. Bên cạnh Tạp chí Tân Thanh Niên, Hồ Thích còn viết bài cho nhiều tờ báo khác và bản thân ông cũng sáng lập những tờ báo riêng, nỗ lực cổ động việc cải cách lối viết theo ngôn ngữ sinh hoạt, tức văn bạch thoại, xóa bỏ lối viết truyền thống của từ chương, khoa cử, xa rời quần chúng, vốn là nguồn cơn của nạn mù chữ. Chính những hoạt động tích cực ấy của Hồ Thích đã góp phần lan rộng phong trào văn bạch thoại và đưa đến sự bùng nổ của cuộc vận động Ngũ Tứ, đỉnh điểm của phong trào vận động Văn hóa mới, đánh dấu sự sang trang của văn hóa Trung Hoa chính thức bước vào thời hiện đại.
Những năm tiếp sau đó, nền chính trị Trung Quốc và thế giới có nhiều biến động: trong nước là sự tồn tại của chính phủ quân phiệt, bên ngoài là sự bùng nổ của cuộc Thế chiến thứ Hai, và rồi nội chiến Quốc – Cộng diễn ra, Hồ Thích theo phe Quốc Dân Đảng lưu vong sang Đài Loan… liên tục những mối đe dọa luôn lăm le triệt tiêu những tiếng nói của tự do và các phát ngôn thẳng thắn. Tuy vậy, Hồ Thích vẫn tích cực hoạt động, dùng tiếng nói và tư tưởng của mình đóng góp những góc nhìn và lời kêu gọi cho công cuộc xây dựng nền văn minh tiến bộ xã hội, bất kể các tòa soạn của ông nhiều lần bị đóng cửa, bị dọa dẫm thủ tiêu.
Cuốn sách Triết học và Nhân sinh của Hồ Thích chính là vài nét phác họa khái quát cho ta một quá trình hoạt động và suy tư liên tục của nhà tư tưởng, đồng thời cũng là một nhà trí thức dấn thân tiêu biểu này. Gọi là chỉ “vài nét phác họa”, bởi cuộc đời hoạt động của ông bao la và hoành tráng hơn quyển sách này rất, rất nhiều. Ta biết rằng bộ Hồ Thích toàn tập, công trình tổng hợp tất cả tác phẩm của ông, gồm tới 44 quyển, mỗi quyển trung bình hơn 800 trang, quả là đồ sộ biết bao! Nhưng dù chỉ là một vài đường nét, ta cũng có thể ít nhiều hình dung nhà trí thức này đã sống, đã suy tư, đã hành động như thế nào. Quyển sách là tuyển tập các bài viết, bài diễn thuyết và phát biểu của Hồ Thích liên quan đến nhiều vấn đề của đời sống xã hội Trung Hoa, như tự do và dân chủ, trách nhiệm của cá nhân và cộng đồng đối với sự tiến bộ của toàn dân tộc, cho đến vấn đề trách nhiệm của báo chí, của cơ quan ngôn luận, kèm những suy tư của ông về văn hóa nước nhà, trong góc nhìn đối chiếu với các nền văn hóa khác, cụ thể là phương Tây.

Điều đầu tiên mà cuốn sách có thể khơi gợi suy nghĩ của người đọc, chính là ở cách đặt nhan đề. Những người tổng hợp đã đặt nhan đề sách dựa theo tiêu đề của một bài viết bên trong sách này. Có thể nói đây là một lựa chọn rất hợp lý, vì bài viết ấy (Triết học và nhân sinh) đã phản ánh khá đầy đủ cương lĩnh tư tưởng một đời của tác giả cũng như đã toát yếu được chủ đề chính của cuốn sách nói chung: Nỗ lực gắn kết triết học với nhân sinh, xóa bỏ khoảng cách giữa tư tưởng và hành động, giữa trí thức và giới bình dân. Đồng thời, ngay bài viết lẫn chính tiêu đề này đã nhấn mạnh một định nghĩa mới cho triết học, tại đó xem nhân sinh vừa là cội nguồn tư tưởng, là đề tài triển khai và cũng là cứu cánh chung cuộc của triết học.
Vì lẽ đó mà ta có thể thấy rõ Hồ Thích trong sách này, dù là khi nói hay khi viết, đều cẩn thận sử dụng lối ngôn từ gần gũi, sáng rõ, không đao to búa lớn và trừu tượng phức tạp, để phản ánh những suy tư về con người và xã hội, cụ thể là xã hội Trung Quốc bấy giờ, với dụng ý đóng góp những góc nhìn phân tích và dẫn lối nhằm tạo nên sự đổi thay tiến bộ. Mục đích sau cùng của cả triết học lẫn nhân sinh đều là đi tìm những ý nghĩa của đời sống. Chỉ khác là, một bên tìm kiếm ý nghĩa trên bình diện lý thuyết, dựa trên suy luận thuần túy, tức là triết học. Bên còn lại đi tìm ý nghĩa cuộc đời trên bình diện trực tiếp trải nghiệm và hành động. Tuy vậy, ta vẫn thấy rõ đây là hai hoạt động tương hỗ và song hành, bởi lý luận luôn luôn dẫn đường cho hành động cụ thể, và ở chiều ngược lại, những đúc kết từ trải nghiệm thực tiễn của quá trình hoạt động chính là chất liệu của tư duy, suy luận. Hay có thể khái quát hóa như Hồ Thích rằng: “Nhân sinh tách rời khỏi triết học thì đó là nhân sinh không có ý nghĩa, triết học tách khỏi nhân sinh thì đó là thứ triết học mơ mộng hão huyền”.
Trở lại với quyển sách này, bạn đọc hẳn sẽ rất ngạc nhiên khi dù nhan đề có vẻ tạo cảm giác rụt rè với những ai vốn chưa quen dòng sách tư tưởng, triết lý, nhưng thực tế khi đọc vào ta lại khó tìm ra một danh từ chuyên môn hay khái niệm triết học nào, mà hầu như chỉ là những lời tự sự và chia sẻ đời thường, như thể một người bạn từ phương xa mới về, đang kể chuyện ta nghe bên tách cà phê buổi sáng. Tại đó, ta sẽ bắt gặp câu chuyện của người bạn Hồ Thích, kể lại những điều mắt thấy tai nghe khi sống và học tập tại Mỹ quốc, lồng ghép vào đó là những so sánh, đối chiếu của ông về hai nền văn hóa, từ đó rút ra đâu là những điểm tiến bộ mà người Trung Hoa cần học hỏi, như vấn đề nam nữ bình đẳng, quyền học hành của nữ giới chẳng hạn. Học cũng là một vấn đề đáng nói và cần phải nói, Hồ Thích cũng bàn hăng say về sự học, về mục đích, vai trò, cách thức của sự học, học làm sao cho hiệu quả, thiết thực và có giá trị. Hoặc ở câu chuyện khác, anh bạn họ Hồ này lại tiếp tục kể về những kinh nghiệm làm báo của mình, và nhấn mạnh sự cần thiết của tinh thần tự do và trách nhiệm khi cầm bút, rằng tự do là dám nói sự thật, còn trách nhiệm chính là phải biết trung thực và cẩn thận với công việc của mình.
Triết học đại biểu cho tri thức, sự hiểu biết, khả năng tư duy chiêm nghiệm của con người. Tri thức càng lớn thì tầm nhìn càng rộng, cũng tức là sẽ càng thấy rõ sự liên hệ mật thiết giữa cá nhân mình với cộng đồng chung quanh. Thấy được điều đó, tự dưng sẽ nhận ra mình cũng có trách nhiệm để bảo vệ và xây dựng những cái chung, vì ta thấy được đó cũng là cái của mình, cho mình.
Cuộc sống vốn không tĩnh lặng mà luôn đầy biến động, những người trí thức tỉnh táo càng phải thấy mình cần liên tục tư duy, liên tục cập nhật hiểu biết để phát hiện các vấn đề, nhưng không chỉ là vấn đề của riêng mình, mà còn là những vấn đề chung vốn cần tầm nhìn đủ rộng của hàng ngũ trí thức để phát hiện nguyên nhân và đề ra giải pháp. Tinh thần trí thức dấn thân có lẽ đã được hình thành từ khả năng nhận thức ấy, đúng như điều Hồ Thích đã khẳng định rất mạnh mẽ rằng: “Chỉ khi nào ta nhận thức được rằng không có chân lý vĩnh viễn, bất di bất dịch, thì khi ấy trong ta mới thức tỉnh ý thức về trách nhiệm của người trí thức”.
Bài viết do Đội ngũ Anam Cara thực hiện.
Để lại một bình luận