Lịch sử đô thị và ký ức đô thị

“Trăm năm bia đá cũng mòn
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.”

(Ca dao)

Câu ca dao tưởng chừng chỉ bàn về tính ăn, nết ở, danh thơm và tiếng xấu của con người, ấy vậy lại cũng ẩn chứa một góc nhìn so sánh rất trực quan về “độ bền” giữa di chỉ và ký ức lịch sử: Ta thấy, nếu như tuổi thọ của các di chỉ, hiện vật lệ thuộc vào sức bền của vật liệu tạo tác, như bia đá dù cứng chắc trải trăm năm vẫn mòn, thì ký ức của con người về một thời đại quá khứ, sẽ có triển vọng được bảo lưu bền bỉ đến muôn đời, nếu như chúng ta khéo léo gìn giữ. Lịch sử, theo góc nhìn ấy, không chỉ đơn thuần hoang tàn và bụi bặm như dáng vẻ của những hiện vật, chứng tích, mà có thể mang dáng vẻ sống động, tươi mới, đầy xúc cảm trong ký ức của từng con người, được lưu giữ và truyền trao qua từng thế hệ. Phong cách “làm sử” ấy ta có thể tìm thấy trong cuốn sách “Hạ tầng đô thị Sài Gòn buổi đầu” của tác giả Trần Hữu Quang.

Đô thị Sài Gòn một thời giờ đây được mang tên của một vị lãnh tụ: Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2025 đánh dấu kỷ niệm 50 năm cột mốc lịch sử quan trọng của Thành phố này: Cột mốc nước nhà hoàn toàn thống nhất và cuộc chiến 20 năm chính thức chấm dứt ngay tại nơi đây, với hình ảnh biểu tượng là lá cờ độc lập tung bay trên nóc Dinh Thống Nhất – cũng là Phủ Tổng thống ngày trước.

Nhưng lịch sử thành phố Hồ Chí Minh trong tư cách một đô thị không chỉ có 50 năm, nói cách khác, 50 năm chỉ là một khoảng ký ức của đô thị này. Bàn về lịch sử luôn dông dài, với vô số chủ đề để kể. Viết về lịch sử cũng có nhiều cách, nhiều điểm nhìn, nhiều đề tài khác nhau để khai thác. Tác giả Trần Hữu Quang trong công trình của mình đã lựa chọn viết về lịch sử hình thành của cơ sở hạ tầng Sài Gòn, vào buổi đầu nơi này trở thành một đô thị. Dấu mốc tính từ hơn 300 năm trước, với sự kiện năm 1698 quan Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh cho “lập xứ Sài-côn làm huyện Tân-bình, dựng dinh Phiên-trấn” như nguồn sử liệu trong sách đã dẫn ra. Kể từ dấu mốc ấy, với vị trí địa lý đặc biệt và sự chăm chút đầu tư của các chính quyền qua các thời đại, bất kể những biến động từ thời trị sang thời loạn, sang đến cả giai đoạn thuộc địa và chiến tranh liên miên, đô thị này đã và vẫn luôn ngày một tỏ rõ vai trò của mình như một trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội của cả nước.

Sự phát triển liên tục và mạnh mẽ ấy của đô thị Sài Gòn không thể không xét đến vai trò nền tảng của một hệ thống cơ sở hạ tầng được thiết kế và thi công kỹ lưỡng, liên tục cải tiến để phục vụ tốt cho hoạt động nhiều mặt của thành phố, từ chính trị, thương mại, quân sự, an sinh xã hội, vân vân. Từ đó, liên tục tạo nên nguồn lực đầu tư hùng hậu cho những giai đoạn phát triển kế tiếp.

Từ trong tập sách, người đọc sẽ từng bước khám phá sự “tiến hóa” của từng khung cảnh đô thị, từ đường sá, nhà cửa, chợ búa, vỉa hè, cống thoát, hệ thống thủy lợi cho đến công viên, cây xanh, điện lực, vân vân. Tất cả được giới thiệu tổng quan, dễ hình dung, không với tham vọng bàn sâu khía cạnh kỹ thuật, mà cho ta một bản mô tả vừa đủ sáng rõ để thấy được quá trình “trưởng thành” của một đô thị cả ở kích thước văn minh lẫn văn hóa.

Ví như, ta sẽ biết được Sài Gòn đã thắp đèn đường từ hơn 150 năm trước, ban đầu dùng đèn lồng thắp dầu dừa, rồi chuyển sang dùng dầu hỏa, và đèn đường thắp bằng điện chỉ có từ năm 1909. Hay có thể bạn đọc cũng sẽ thú vị khi biết rằng, tư duy quy hoạch Sài Gòn như một đô thị hiện đại đã có từ rất sớm, ngay từ năm 1867 người Pháp đã có những thảo luận và tranh cãi gay gắt về việc xác định “cốt nền” hay mức cao trình cho việc quy hoạch xây dựng thành phố. Hoặc rằng, bạn đọc cũng sẽ biết được Sài Gòn đã có đường tàu điện đô thị từ năm 1881 với chuyến tàu điện đầu tiên nối liền Sài Gòn và Chợ Lớn.

Để làm được điều đó, điểm ghi dấu ấn đáng nể phục của tác giả chính là sự khảo sát kỳ công một khối lượng tư liệu, tài liệu đồ sộ, bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Có thể thấy chúng bao gồm các tư liệu địa dư và sử ký lẫn văn thư của các triều đại, những ghi chép tường tận của người Pháp, người Mỹ trong quá trình các chính quyền này hoạt động tại đây. Độc giả còn có thể có được sự liên tưởng trực quan nhờ lượng tư liệu ảnh được sưu tầm rất phong phú, giúp cho các mô tả của tác giả không hề thuần túy chữ nghĩa và số liệu. Hiển nhiên, số liệu và bảng biểu thống kê, so sánh cũng là một ưu điểm phải kể đến của công trình này, tạo nên tính khách quan và thuyết phục cho những độc giả nghiêm khắc và cẩn thận khi tiếp nhận các thông tin, quan điểm mới.

Mặt khác, ta nhận thấy, diễn trình hình thành, phát triển, biến đổi của cơ sở hạ tầng một đô thị, không chỉ phản ánh quan điểm điều hành của giới chức chính quyền, mà còn có phần phản ánh lối sống, cách sinh hoạt và tư duy của cộng đồng cư dân qua từng thời kỳ. Tựu trung hai khía cạnh, ta thấy được cái nhìn về lịch sử hạ tầng đô thị giờ đây vượt ra khỏi khuôn khổ quen thuộc của lịch sử kỹ nghệ và văn minh để tiến bước vào không gian của ký ức văn hóa, của nơi lưu giữ ký ức tập thể của bao thế hệ con người về một cõi sống, một xứ sở, quê hương.

Có một câu trích rất hay sau đây của Halbwachs được tác giả Trần Hữu Quang dẫn lại trong sách, rằng:

“Khi một nhóm [xã hội] được lồng vào một phần của không gian, nhóm này sẽ biến đổi phần không gian này theo hình ảnh của mình, nhưng đồng thời nó cũng tự khép mình vào và tự thích ứng mình với những đồ vật vật chất […] Mỗi dáng vẻ, mỗi chi tiết của nơi chốn ấy đều tự nó có một ý nghĩa mà chỉ có các thành viên nhóm mới hiểu được…” (trang 179)

Nghĩa là, đơn giản như khi ta sống trên một mảnh đất, ta sẽ kiến tạo nên ngôi nhà và cõi sống của mình theo những ý thích riêng và đồng thời phải phù hợp với khu đất, với hoàn cảnh chung quanh. Cũng vậy, quá trình một cộng đồng người sống trong đô thị cũng là quá trình tương tác hai chiều: vừa thích nghi với điều kiện sẵn có, vừa nỗ lực kiến tạo những ý nghĩa đặc biệt cho đô thị sao cho phù hợp với lối sống, lối nghĩ của cộng đồng ấy. Quá trình sinh sống này sẽ tạo nên và tích lũy thành một kho ký ức tập thể, phản ánh tâm lý, tình cảm, tư tưởng của cộng đồng, trong tương quan với bối cảnh thời đại rộng lớn hơn.

Hiểu được điều đó, và khai thác được phần ký ức ấy, bản mô tả lịch sử đô thị của chúng ta mới có thể cặn kẽ, sâu sát và sâu sắc hơn. Như tác giả nhận định:

“Mỗi người dân luôn luôn có những hình ảnh trong đầu về một số địa điểm nào đó đáng chú ý nhất trong không gian mà mình đang sinh sống. Mặc dù những hình ảnh này mang tính chủ quan và phụ thuộc vào kinh nghiệm cá nhân, nhưng xét trên bình diện xã hội, suy cho cùng chúng lại cấu tạo nên cái kho tàng ký ức mang tính cộng đồng. Có thể nói, ký ức này là một thành phần quan trọng nằm trong ý thức xã hội của cả một cộng đồng dân cư trong một thời kỳ lịch sử nhất định.” (trang 179)

Chính quan điểm nghiên cứu ấy của tác giả đã giúp ta có cơ hội gặp gỡ lại Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh của không chỉ một thời đại, mà tựa như một thước phim tua chậm hiện lên nhiều sắc thái, nhiều góc cạnh của đô thành này qua những giai đoạn khác nhau. Trên giao lộ gặp gỡ ấy, bạn đọc hoài cổ say mê với cảnh cũ người xưa sẽ được nghe lại, thấy lại những gì ngày nay đã tàn phai theo năm tháng, thậm chí có những khung cảnh chỉ còn là bình địa, hoặc đã “vật đổi, sao dời”. Bạn đọc tò mò với trật tự quy hoạch của không gian phố sá hiện tại cũng sẽ có dịp biết được cơ duyên đưa đến hiện trạng phân bố hạ tầng đô thị ngày nay, với cái nhìn khái quát từ cả phương diện kỹ thuật lẫn phương diện xã hội.

Lịch sử đô thị cũng chính là ký ức về đô thị ấy, khi chúng ta xem mảnh đất dưới chân mình không chỉ là phố phường, mà còn là cõi sống, là thứ gắn bó mật thiết thân thương trong tâm khảm mỗi người, như lời thơ của thi sĩ Chế Lan Viên trong bài Tiếng hát con tàu:

Khi ta ở chỉ là nơi đất ở,
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn.”

Bài viết do Đội ngũ Anam Cara thực hiện.


Comments

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *